Nguồn gốc tên gọi 63 tỉnh, thành phố Việt Nam – Phần 1
Nguồn gốc tên gọi 63 tỉnh, thành phố Việt Nam – Phần 1

Việt Nam là một quốc gia với 63 tỉnh thành trực thuộc trung ương, và có những câu chuyện đặc biệt về nguồn gốc tên gọi của từng tỉnh thành này. Hiểu được những câu chuyện này sẽ giúp chúng ta tìm hiểu sâu hơn về đất nước và văn hóa Việt Nam. Bài viết này sẽ giới thiệu về nguồn gốc tên gọi của một số tỉnh thành ở Miền Bắc Việt Nam. Chúng ta hãy cùng khám phá nhé!

1. HÀ NỘI

Hà Nội, thủ đô của Việt Nam, có một nguồn gốc tên gọi đặc biệt. Sau khi vua Gia Long tiêu diệt triều đại Tây Sơn, ông đã đổi tên kinh thành cũ Thăng Long thành phủ Hoài Đức thuộc Tổng Trấn Bắc Thành. Tuy nhiên, vào năm 1831, vua Minh Mạng đã bỏ Bắc Thành và 11 Trấn, thay vào đó là 29 Tỉnh. Tỉnh Hà Nội ra đời và gồm thành Thăng Long, phủ Hoài Đức (của Tây Sơn) và ba phủ Ứng Hòa, Thường Tín, Lý Nhân của Trấn Sơn Nam. “Hà” có nghĩa là sông, “Nội” có nghĩa là bên trong. Do đó, Hà Nội có nghĩa là thành phía trong sông, bởi vì tỉnh Hà Nội được bao bọc bởi sông Hồng và sông Đáy.

Hà Nội

2. BẮC GIANG

Bắc Giang là một tỉnh có nguồn gốc từ thời kỳ vua Hùng. Trong giai đoạn Lý – Trần, nơi này được gọi là “lộ Bắc Giang”, đời Lê gọi là “phủ Bắc Hà”. Năm 1822, tỉnh này đổi tên thành “phủ Thiên Phúc” và đến đời Tự Đức thành “phủ Đa Phúc”. Tuy chưa có tài liệu chứng minh, nhưng tên gọi “Bắc Giang” có nghĩa là phía bắc sông.

Bắc Giang

3. BẮC KẠN

Bắc Kạn là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam. Tên gọi này có nguồn gốc từ bản sao bài văn bia “Tam hải hồ sơn chí” được khắc trên đá dựng ở Bó Lù, bờ hồ Ba Bể. Bia này do tác giả Phan Đình Hoè viết và ông Vi Văn Thượng khắc và dựng năm 1925. Từ “Kạn” trong từ “Bắc Kạn” có bộ “tài gẩy” bên chữ “Can”, âm Hán Việt đọc là “cản”, chữ này có nghĩa là “ngăn giữ, bảo vệ, chống cự” (phía bắc).

Bắc Kạn

4. BẮC NINH

Bắc Ninh có nguồn gốc từ một phần xứ Kinh Bắc. Thời kỳ Hồng Bàng, khi nước Văn Lang chia thành 15 bộ, bộ Vũ Ninh là vùng lãnh thổ thuộc phần lớn tỉnh Bắc Ninh hiện nay. Tên gọi “Bắc Ninh” có thể xuất phát từ Kinh Bắc và Vũ Ninh.

Bắc Ninh

5. CAO BẰNG

Cao Bằng có một lịch sử lâu đời. Xưa kia, nơi này thuộc về bộ Vũ Định thời Hùng Vương. Đến đời Lý, đất này được gọi là đất Thái Nguyên. Năm 1467, đổi thành “phủ Bắc Bình”, sau đó đổi thành “phủ Cao Bình”. Đến đời Tây Sơn, tên Cao Bình dần trở thành Cao Bằng và vẫn được sử dụng cho đến ngày nay.

Cao Bằng

6. ĐIỆN BIÊN

Điện Biên là một vùng đất cổ. Vùng này vốn được gọi là Mường Thanh, từ chữ “Mường Then” theo tiếng dân tộc Thái, có nghĩa là “Xứ trời”. Đây được coi là nơi thiêng liêng ở miền biên viễn, là nơi mà trời đất kết nối. Tên gọi “Phủ Điện Biên” hoặc “Điện Biên Phủ” được vua Thiệu Trị đặt vào năm 1841. “Điện” hiểu theo nghĩa này, có nghĩa là một vùng núi to nhưng đất thiêng, là điện thờ. “Biên” có nghĩa là biên viễn.

Điện Biên

7. HÀ GIANG

Hà Giang có tên gọi đặc biệt. Theo giải thích về nghĩa chữ, “Hà Giang” có nghĩa là con sông nhỏ chảy vào dòng lớn. Cụ thể ở đây là con sông Miến chảy vào sông Lô.

Hà Giang

8. LÀO CAI

Lào Cai có cách phát âm từ người địa phương đọc chữ “Lão Nhai”, có nghĩa là “Phố Cũ” hoặc “Chợ Cũ”. Người địa phương thường gọi Bảo Thắng, một khu phố do Lưu Vĩnh Phúc xây dựng và nằm ở vùng thuộc thị xã Lào Cai ngày nay, bằng tên Lảo Kay. Sau đó, người Pháp phiên âm lại cách gọi này bằng chữ Latinh là Lao Kai hoặc Lao Kay.

Lào Cai

9. HẢI DƯƠNG

Hải Dương có tên chính thức từ năm 1469, có ý nghĩa là “Hải là miền duyên hải” – vùng đất giáp biển, “Dương là ánh sáng” – ánh mặt trời. Hải Dương nằm ở phía đông kinh thành Thăng Long. Hướng Đông cũng là hướng mặt trời mọc. Vì vậy, Hải Dương có nghĩa là “ánh mặt trời biển Đông” hay “ánh sáng từ miền duyên hải (phía đông) chiếu về”. Theo “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, Hải Dương được đánh giá là trấn thứ nhất trong bốn kinh trấn và là phên giậu phía đông của kinh thành Thăng Long.

Hải Dương

10. HẢI PHÒNG

Hải Phòng là một thành phố có cảng biển và được thành lập vào năm 1888. Có thể giải thích tên gọi “Hải Phòng” là gọi rút ngắn từ cụm từ “Hải tần phòng thủ” của nữ tướng Lê Chân đầu thế kỉ 1. Hoặc cũng có thể xuất phát từ tên gọi rút ngắn của một cơ quan đời Tự Đức trên đất Hải Dương: “Hải Dương thương chính quan phòng”. Tên gọi này cũng có thể bắt nguồn từ “ti sở nha Hải phòng sứ” hay “đồn Hải Phòng” do Bùi Viện lập từ năm 1871 đời Tự Đức.

Hải Phòng

Đây chỉ là một phần nhỏ trong số 63 tỉnh thành Việt Nam, mỗi tỉnh thành đều có câu chuyện riêng về nguồn gốc tên gọi và lịch sử phát triển. Cùng với việc khám phá vẻ đẹp thiên nhiên và văn hóa ở mỗi địa phương, chúng ta cũng nên tìm hiểu về những câu chuyện này để hiểu hơn về đất nước và con người Việt Nam.

Nguồn: Sưu tầm – Tổng hợp từ Internet

Ảnh nguồn gốc các tỉnh, thành phố Việt Nam – Phần 1

By Thai Anh

Hỗ trợ bạn đọc có thêm nhiều kiến thức vay vốn. Giúp mọi người có thể giải quyết các vấn đề tài chính trong cuộc sống thường ngày.